Monday, December 28, 2015

ĐÁM TANG BÀ NĂM


ĐÁM TANG BÀ NĂM

Cái Rắn, ngày 16-7-1995 



Hôm nay Chúa nhật, sau lễ chiều, bà Sáu Sen hối mình :

- Ông cố ơi ! Ông cố đi rửa tội gấp cho bà Năm Thân. Bà hết biết rồi. Gia đình người ta đem xuồng tới đón.

- Bà Năm xin theo đạo từ năm sáu tháng nay mà chưa rửa tội cho bà được..Thôi mình đi !

Bà Năm nằm im lìm, hai mắt nhắm nghiền. Mình nhắc bà kêu ông Trời bằng cha ... xin Chúa rước linh hồn bà về hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa. Bà cụ cựa cái đầu, nhóp nhép cái miệng. Bà còn tỉnh, nhưng đã kiệt sức.

- Maria, tôi rửa bà nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.

Mình bắt tay giã từ ông Năm.

- Tôi gởi ông Năm chút tiền để lo cho bà Năm. Tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho bà Năm và ông Năm.

- Ông cha nhớ là tôi và bà nhà tôi đã xin theo đạo ông cha. Con út tôi cũng theo đạo ông cha. Còn mấy đứa kia, thì tôi sẽ nói với tụi nó.

Bước xuống xuồng, nhìn trở lại, mình thấy bà con lối xóm đã bắt đầu dựng rạp; căn nhà của ông Năm đã xiêu vẹo; cửa ra vào là một hình bình hành mà hai góc nhọn đã quá nhọn. Có lẽ nó sẽ sập xuống trước khi bà Năm ra đi.
Sở dĩ mình lần khân không muốn rửa tội sớm cho ông bà Năm, vì mình vẫn nghĩ câu nói sau đây là một thực tế : "Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Thủng thẳng để chờ đợi là thượng sách. Nhưng nghĩ như thế có xúc phạm đến người nghèo không nhỉ ?
--------------

Cái Rắn, ngày 17-1-1995

Sáng nay bà Sáu Sen hớt hải báo tin :

- Bà Năm chết rồi ông cố ơi !

- Hồi nào ?

- Hồi khuya nay. Mấy chị em tụi con trực suốt đêm ở bển.

- Hỏi gia đình người ta xem chừng nào thì chôn cất để tôi qua làm lễ an táng.

Bốn giờ thiếu mười lăm, mình xuống xuồng.

Bà con ngồi đầy sân. Mấy chục vành khăn tang đi ra đi vào. Một người đàn ông dõng dạc tuyên bố :

- Trước khi ông cha nhà thờ làm lễ cho bà Năm, con cháu tập họp phía trước. Lên đèn cúng...

- Đem đồ ăn ra !

- Có bấy nhiêu thôi sao ? Cho thêm vài món nữa ! Tội nghiệp bả.

Mấy chục cái đầu cúi rạp xuống để tỏ lòng biết ơn đối với "công đức sinh thành"...

- Tôi xin công bố: nhà thờ giúp một trăm tám mươi lăm ngàn đồng, mười ký gạo và ba bộ đồ; chánh quyền ấp chúng tôi giúp một trăm ngàn đồng. Bây giờ mời ông cha phát biểu cảm tưởng.

Mình dự tính phát biểu cảm tưởng trong bài giảng của thánh lễ. Nhưng ca đoàn chưa tới. Bèn giảng trước thánh lễ để tranh thủ thời gian.

Ai nấy trố mắt, há mỏ để nghe ông cha trệu trạo giọng "Hànội - Sàigòn". Với giọng nói không ngọt ngào, mình chuyển đến bà con lương dân cảm nghĩ về cái chết theo Kitô giáo: "Chết là trở về với Chúa; chết là khởi đầu cuộc sống vĩnh cửu” . Từ đó mình gởi lời chia vui với bà Năm, và xin bà Năm cầu nguyện cho bà con lối xóm, để mọi ng¬ười cùng được sum họp với bà trên thiên đàng. Giảng vừa xong, thì ca đoàn tới. Thánh lễ bắt đầu.

- Yêu cầu bà con giữ trật tự, để ông cha làm lễ.

Một người đàn bà đang cho con bú, kéo vội vạt áo xuống. Ai nấy im lặng như tờ. Ca đoàn dìu mọi người vào thế giới thần linh : "Khi Chúa thương gọi tôi về. Hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ..." . Lời nghe thật rõ, nhạc nghe thật dịu. Chắc hẳn người lương dân cũng cảm thấy như mình. Cái chết đẹp như thế đó.

Mình tập trung tư tưởng để dâng một thánh lễ thật sốt sắng. Chúa Giêsu hiện diện ở đây. Mình tha thiết xin Ngài mạc khải cho bà con lương dân đang trố mắt nhìn vào Ngài. Mình tin rằng họ đang gặp Ngài bằng một cách nào đó.

Khung cảnh quá bệ rạc. Cái bàn tròn khập khiễng. Mái lá của hàng ba thấp lè tè không đủ độ cao để mình dâng Mình Thánh lên cao theo thông lệ. Có lẽ những nhà soạn giáo luật khe khắt không cho phép mình dâng thánh lễ trong điều kiện như thế. Nhưng mình thì nghĩ một cách giản dị: Chúa ngự ở đây cũng như Ngài đã ngự trong hang Bêlem. Cần gì phải câu nệ...

Mình kết thúc thánh lễ, thắp cho bà Năm cây nhang cuối cùng rồi trao thời gian còn lại cho ông Hai Dưỡng...

- Bên tôn giáo làm lễ xong. Đạo tì tiến lên. Nghiêm ! Phút mặc niệm bắt đầu. Thôi!

Hai hàng đạo tì lực lưỡng, mặc quần xà lỏn, trần như nhộng, tràn vào, nâng bổng quan tài lên, khom mình xuống chui qua khung cửa hẹp hình bình hành, rồi đi te te ra huyệt cách đó chừng bốn chục mét. Mình xách máy chụp rượt theo.

Tiếng khóc của con cháu xen lẫn với tiếng cầu kinh của các bà hiền mẫu, tạo nên một âm thanh loạn xà ngầu, nhưng lại làm tê tái lòng người. Mình chụp vội mấy tấm hình cuối cùng, rồi vội vã trở lại căn lều. Ông Năm ghé tai mình nói nhỏ :

- Cha cho tôi xin cái mùng. Cái mùng cũ, tôi cho bả đem theo rồi.

- Được

Ông Hai Dưỡng kéo áo mình :

- Ông cha ở lại dùng cơm chia buồn với ông Năm.

- Rất tiếc tôi phải về. Xin ông Hai cho tôi kiếu.

- Cũng được, nhưng ông cha uống với tôi nửa cốc rượu cho có cảm tình... Một nửa cốc nữa đi ông cha... Cám ơn ông cha nhiều lắm.

Mình xuống xuồng ra về. Cơm bắt đầu bưng ra. Đó là tấm lòng của chồng con bà Năm đối với thịnh tình của bà con lối xóm. Các bà hiền mẫu của mình cũng ở lại để cầu lễ.
…..

Bây giờ đã hai mươi giờ hai mươi phút. Bà Năm đang gởi xác ở đó, bên hàng bình bát rậm rì. Còn hồn của bà thì có lẽ đang sững sờ trước ngưỡng cửa của Người Cha, mà bà đã biết rất muộn màng.

Trong căn lều xiêu vẹo, mấy chục vành khăn tang đang phân vân không biết là nên ra về hay nên ở lại. Ở lại thì không có chỗ ngả lưng. Ra về thì tội nghiệp cho vong linh người quá cố... Và ở tận miền biển xa tắp tít, một thằng con trai của bà Năm đang đi câu cua, chẳng hề biết mẹ mình đã chết. Chẳng ai đi báo tin cho hắn, vì chẳng biết hắn ở đâu mà tìm.

BÀ NĂM


BÀ NĂM

Ô Môn, mùa hè 1963

Mình xách môbylét đi một đường, vừa đi vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện để Chúa chọn cho người truyền giáo một nơi dừng chân. Tự nhiên lòng mình thấy ấm hẳn lên khi nhác thấy một căn nhà lá có trồng cây lựu ở phía trước. Trái lựu to bằng nắm tay đang đánh đu theo gió. Như một phản xạ, mình lái môbylét vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu.



Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.

- Thầy kiếm ai đó ?

- Chào bác. Cây lựu dễ thương quá, cho tôi ngắm một tí.

- Thì vô trong nhà uống nước đã.

- Bác thứ mấy để tôi xưng hô cho dễ.

- Tôi thứ năm. Thứ của ông nhà tôi.

- Thế bác trai đi đâu rồi, bà Năm ?

- Ông tôi mất từ lâu rồi.

- Bây giờ bà Năm ở với ai ?

- Có hai bà cháu à. Thầy ở đâu mà vô đây ?

- Tôi ở Ô Môn vô đây dạy giáo lý. Sáng vô, chiều về. Đi tới đi lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại đây luôn, mà chưa kiếm được chỗ nào ở cho thuận lợi.

- Thì thầy ở đây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở đây thì cũng như con cháu trong nhà chứ gì.

- Thế bà Năm theo đạo nào ?

- Tôi chẳng theo đạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.

- Cám ơn Chúa. Cám ơn bà Năm. Vậy ngày mai tôi vô ở luôn nhá.

- Ừa .
----------

Định Môn, ... 1963

Mình ở đây được một tuần lễ rồi. Nhà bà Năm vắng như một cái am. Thằng cháu trai của bà thì đi chơi xóm. Mình thì đi dạy giáo lý từ nhà này qua nhà khác. Bà Năm thì lúi cúi tối ngày với mấy liếp vườn. Tối về, mình chui vô mùng, ngồi xếp bằng đọc kinh tối. Còn bà Năm thì thắp nhang lâm râm khấn vái. Bà Năm thì ít mồm, còn mình thì ít miệng. Chẳng ai nói với ai lời nào. Thời gian cứ thế mà trôi đi. Âm thầm và lặng lẽ... Còn Chúa Thánh Thần thì lại thích hoạt động trong sự im lặng.
----------

Định Môn, ... 1963

Tối nay mình dạy giáo lý tại nhà ông Sáu Đền. Ông Sáu Đền có một bầy con chưa rửa tội. Bà Sáu Đền bây giờ mới chịu học giáo lý để hợp thức hóa hôn phối với ông Sáu. Bà con trong xóm đến nghe lỏm, ngồi đầy hết hai bộ ván. Còn bà Năm thì xách theo cái ghế đẩu đến ngồi ở hàng ba, khi ẩn khi hiện, thập thò như con thòi lòi dưới gốc dừa nước. Không biết bà có bắt được cái giọng "huế" của mình chăng ? Không biết bà có tin Chúa chăng ? Nhưng có một điều chắc chắn là tối nay bà Năm không còn ít mồm nữa. Bà bắt đầu hỏi chuyện, chuyện giáo lý.

- Tôi thấy thầy giảng về Chúa. Cái gì của Chúa tôi cũng chịu hết, mà có một điều này là tôi không chịu. Thầy giải thích được cho tôi thì tôi theo đạo liền.

- Điều gì thế bà Năm ?

- Thầy nói: Chúa yêu thương người ta vô cùng, vậy tại sao Chúa để cho các bà mẹ sanh con cực khổ như thế: chín tháng cưu mang, sanh con rứt ruột, ba năm bú mớm... Tại sao Chúa không để đàn bà sanh con dễ dàng như con gà: đẻ xong là kêu quác quác, cục te, cục tác… rồi đi bươi, như không có đau đớn gì?

- Bà Năm suy nghĩ hay quá. Vậy tôi xin tạm giải thích nhá. Chúa cho má bà Năm sanh ra bà Năm dễ như con vịt cũng được. Nhưng tôi sợ rằng nếu mẹ sanh con không đau đớn, không cực khổ, thì tình mẫu tử có thể giảm sút. Nếu mẹ không khổ vì con, thì e rằng con sẽ ít hiếu thảo. Cụ thể là nếu má bà Năm sanh bà Năm như gà đẻ trứng, thì chắc chắn má không thương bà Năm nhiều đâu, mà bà Năm cũng chẳng hiếu thảo với má như thế đâu. Người ta thí nghiệm chích thuốc cho một con bò sanh con không đau, thế là khi con bê đòi bú, mẹ nó đá không cho bú. Vậy thay vì buồn Chúa, bà Năm phải cám ơn Chúa mới phải.

Bà Năm có vẻ thấm ý. Mình tấn công luôn:

- Bây giờ bà Năm chịu vô đạo chưa ?

- Thủng thẳng, để tôi còn suy nghĩ.
---------

Ô Môn, ... 1963

Mình đã kết thúc một tháng truyền giáo ở Định Môn và giã từ bà Năm vào sáng hôm nay. Còn bà Năm thì đã giã từ mình vào tối hôm qua.

Tối hôm qua. sau giờ giáo lý ở nhà ông Sáu Đền, mình về nhà bà Năm để chui vô mùng, ngồi xếp bằng đọc kinh tối như thường lệ. Nhưng người ở đâu mà đông thế ? Có lẽ bà Năm cúng cơm cho ông Năm, mình nghĩ bụng vậy. Bà Năm bưng ra hai mâm cháo vịt đặt trên hai bộ ván, rồi bà long trọng tuyên bố lý do:

- Ngày mai ông thầy đi rồi. Từ ngày ông thầy đến ở đây với tôi chưa ăn với tôi bữa cơm nào. Hôm nay tôi đãi ông thầy nồi cháo vịt. Bà con ăn cháo để từ giã ông thầy.

Mình ngẩn tò te. Quả thật, bà Năm ít miệng và kín miệng quá. Nấu cháo vịt đãi mình mà mình không hề hay biết gì. Bây giờ mình đứng xớ rớ chẳng biết đáp từ ra sao. Chỉ biết nói một lời:

- ”Cám ơn bà Năm, cám ơn bà con”, rồi kéo giò lên bộ ngựa húp cháo với bà con. Thì ra ngày đến cũng như ngày đi: một người ít mồm, một người ít miệng với căn nhà lặng lẽ, bên cạnh cây lựu có một trái cô đơn, lặng lẽ đánh đu với gió.
-----------
Sài Gòn, ... 1964

Hôm nay cha sở Ô Môn viết thư báo tin: ”Bà Năm đã được rửa tội và hiện đang giữ đạo thật sốt sắng. Tạ ơn Chúa. Bà Năm nhắc thầy nhiều lắm. Kỳ hè này, thầy nhớ tặng quà cho bà”.

Mình ôn lại tất cả mọi kỷ niệm về bà Năm, với một tấm lòng biết ơn và cảm mến. Bà Năm hiền như củ khoai, lặng lẽ như con sò, cần cù như con kiến. Xóm giềng ai cũng thương. Điều đặc biệt là bà rất thương bà Năm lớn. Ông Năm chết đi để lại hai bà vợ, bà Năm lớn và bà Năm nhỏ. Hai bà ở hai căn nhà liền ranh. Bà Năm lớn sắc sảo, với cặp mắt long lanh và đôi môi mỏng tanh. Bà Năm nhỏ thì hiền từ, với đôi môi hơi dày. Bà Năm lớn có vẻ tự cao tự đại. Bà Năm nhỏ thì khiêm tốn hiền hòa. Họ chẳng cãi nhau, chẳng nói xấu nhau bao giờ. Nồi chè nồi cháo bên này đều được san sớt sang bên kia. Không biết bà Năm lớn có theo đạo như bà Năm nhỏ không nhỉ ?
----------

Ô Môn, ... 1964

Hôm nay mình vô Định Môn thăm bà Năm nhỏ. Mình tặng cho bà một chuỗi hột tuyệt đẹp. Hôm nay mình mới thấy bà Năm cười hết cỡ. Cái môi dày của bà được kéo mỏng ra. Bà nhí nhảnh hỏi ngay :

- Thầy có cho bà Năm lớn một chuỗi không ?

- Tôi chỉ có một chuỗi tặng bà Năm thôi.

- Vậy thì tôi hổng nhận đâu. Hai chị em tôi phải đồng đều. Tôi theo đạo, bà Năm lớn cũng theo đạo. Tôi có chuỗi hột, thì bà Năm lớn cũng phải có.

Mình tiu nghỉu, bỏ chuỗi hạt vào túi và định bụng đi Sàigòn mua một chuỗi nữa, để tặng đồng đều cho hai bà vợ của một người đã chết. Quả thật trên đời có nhiều chuyện lạ.

Chuyện lạ thứ nhất :

Là hai bà vợ không ghen nhau, mà yêu nhau như chị em ruột.

Chuyện lạ thứ hai :

Là Thánh Thần lợi dụng chế độ đa thê, để ban đức tin theo kiểu hốt hụi.

Quả thật Chúa Thánh Thần là “Đấng sửa lại mọi sự trong ngoài chúng tôi”. Người muốn thổi đâu thì thổi. Người đến từ đâu: không biết. Người sẽ đi đâu: không biết. Chỉ biết một điều, là có Ngài, và Ngài là chủ chốt của sự nghiệp truyền giáo.

Sài Gòn, ...

Sài Gòn, ...

Hôm qua mình nhận được điện tín báo: “Lên gấp". Mình chạy vội ra bến Thợ nhuộm nhờ chị Bảy Thanh dẫn đi mua giùm một vé tốc hành Cà Mau - Sàigòn.

- Hết vé rồi chị Bảy ạ. Tụi em chỉ bán có 11 vé thôi. Chị dẫn ông cha qua bên kia cầu. Bên đó bán 11 vé, may ra thì còn. 



- Còn có cái may nào khác nữa không ? Mình hỏi thêm ngụ ý: nếu thêm tiền thì sao ?

- Hết phương rồi ông cha ơi. Mỗi tối chỉ có hai chuyến "phôca" thôi.

Mình lủi thủi qua bên kia cầu, để thử vận.

- Còn vé đi Sài Gòn không chị ?

- Hết rồi chú. Chú cứ ngồi uống nước đi. May ra có người bỏ cuộc chăng.

Mình kêu một ly cà phê đá và ngồi chờ vận may ngàn năm một thuở. Có thể vận may đi Sàigòn thì không có, mà chỉ có vận may bán được thêm một ly cà phê. Nếu thế thì mình bị gạt rồi...

Một lát sau có một chú thanh niên loóc toóc từ trên dốc cầu đi xuống, hành trang gọn nhẹ với một cái túi lép kẹp vắt trên vai.

- Ê, hết chỗ rồi mày !

- Hết sao được. Chị hứa dành cho em vé số 22 mà.

- Mày thì có việc gì cần đâu. Mai đi cũng được.

- Không chơi. Chị hứa thì chị phải giữ lời.

- Tao nói rồi mà. Hết vé. Mai hẵng đi.

Anh chàng thanh niên tiu nghỉu quay gót. Khi hắn đã đi thật xa, chị chủ quán quay lại phía mình, đon đả :

- Cha! Con bẻ chỉa thằng đó để lấy vé cho cha đó. Con là người ngoại, nhưng con biết cha từ hôm đám tang ông Năm Phần. Hồi nãy con làm bộ kêu cha bằng chú, cha thông cảm nhá. Xe sắp qua rồi đó.

Hai mươi giờ rưỡi, chiếc FK vượt cầu và dừng lại ở phía bên kia đường. Mình vội vàng xách túi đồ đi theo chị chủ quán.

- Ê, mày xuống dưới kia, nhường chỗ cho ông cha... Cô gái đang ngồi ghế số 5 ngoan ngoãn đi xuống ghế số 22.

Xe lăn bánh.

Mình vẫy tay chào chị chủ quán. Lòng khấp khởi mừng. “Nhất thân, nhì thế” là vậy đấy...

Bây giờ thì mình đang ở Sàigòn rồi. Cái vui của hôm qua đã tàn lụi. Bây giờ thì lương tâm cắn rứt quá chừng. Chỉ vì mình, mà chị chủ quán cà phê đã hai lần vi phạm luật công bằng xã hội. Vì mình, mà anh chàng thanh niên phải tiu nghỉu ra về. Vì mình, mà cô gái đang ung dung ngồi ghế số 5 phải rút xuống ghế chót để chịu xe dằn xe lắc. Lẽ ra mình phải chống lại bất công thì mình đã im lặng đồng lõa. Mình đã xây dựng niềm vui trên nỗi khổ của người khác. Mình không chống bất công, chỉ vì mình là người được hưởng lợi ích của bất công...
----------

Cần Thơ, ...

Tin từ Tòa Giám mục: Đức cha Nguyễn Kim Điền phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám mục ở Rôma: “Đã có nhiều Giám mục tử đạo vì đức tin. Nhưng chưa có Giám mục nào tử đạo vì công bằng xã hội” .

Ừ, có lẽ như thế thật. Tại sao ?

Có lẽ vì các ngài chưa bao giờ là nạn nhân của bất công, nên không phải đấu tranh chống bất công. Vì không phải là nạn nhân của bất công, nên không bén nhạy trước nỗi thống khổ của những người chịu đựng bất công. Các ngài yêu thương và giúp đỡ người bị đàn áp, nhưng không tích cực đến mức độ đứng hẳn về phía họ và chịu đổ máu vì họ.

Mình dám suy nghĩ như thế, chỉ vì mình “suy bụng ta ra bụng người” mà thôi. Một lần kia mình chứng kiến cảnh tranh chấp giữa hai thằng cu tí. Hai đứa được mẹ cho một tô chè với lời dặn thằng anh: “Chia đều cho em nghe con” . Thằng anh láu cá tuyên bố:

- Tao lấy cái tăm đặt ở giữa tô. Mày múc bên đó. Tao múc bên này. Thế là đều. Đồng ý chưa ?

- Đồng ý.

Hai anh em cùng múc, múc trong khu vực của mình. Nhưng thằng anh múc nhiều hơn. Chè bên phía thằng em chảy qua phía thằng anh. Khi thằng em khám phá được cái trò bịp bợm của thằng anh, thì đã quá trễ, chỉ còn biết khóc, khóc nức nở, khóc hậm hực. Còn mình thì cười một cách thích thú. Mình không chia sẻ cảnh bất công của thằng em và không can thiệp, chỉ vì mình không hề là nạn nhân của thằng anh láu cá. Đời là thế đấy !
----------

Cái Răng, ...

Hôm nay mình ghé chủng viện Cái Răng. Phòng đầu tiên mà mình bấm chuông là phòng cha giáo Chương. Cha giáo đang duyệt phim.

- Cha Piô coi phim Les Missions chưa ?

-Về phim ảnh thì mình “dốt đặc cán mai, dài cán thón”. Bác tóm tắt giùm em coi. Hết sức vắn tắt thôi.

- Phim mô tả cảnh thực dân da trắng tấn công các bộ lạc da đỏ. Các nhà truyền giáo thì có hai thái độ :

+ Thái độ một : đứng hẳn về phía người da đỏ, cầm vũ khí chống lại thực dân.

+ Thái độ hai: khước từ bạo lực, chỉ rao giảng và cầu nguyện.

Nhưng cuối cùng thì thực dân tấn công và tiêu diệt tất cả. Hàng Giám mục địa phương báo cáo về Tòa Thánh như sau :

“Hàng giáo sĩ của chúng tôi đã đứng ra bênh vực người da đỏ, chống lại thực dân. Có người dùng bạo lực, có người dùng lời cầu nguyện. Cả hai đều đã chết. Họ đã chết, nhưng dường như họ vẫn sống. Còn chúng tôi, hàng Giám mục thì vẫn còn đang sống. Chúng tôi đang sống, nhưng dường như chúng tôi đã chết” .

Nội dung chuyện phim, cùng với giọng truyền cảm của cha giáo Chương, làm mình bị xúc động. Có lẽ mình còn phải suy nghĩ về đề tài này nhiều năm nữa.
----------

Cà Mau, …

Hôm nay trong bài giảng tĩnh tâm hạt Minh Hải, Cha Triều nhắc đến cái chết của Đức cha Oscar Romero, Tổng Giám mục El Salvador. Ngài bị ám sát ngay trong thánh lễ sau một bài giảng chống bất công. Ngài đòi chính quyền phải chia tài nguyên tổ quốc cho nhân dân, vì hầu hết đất đai của tổ quốc là tư hữu của những người quyền thế. 90% nhân dân chỉ là người đi làm mướn.

Hôm nay mình mới được nghe nói đến tên Oscar Romero và cái chết của ngài. Phải chăng đây là của lễ đầu mùa mà hàng giáo phẩm Công giáo dâng lên Chúa: một vị Giám mục tử dạo vì công bằng xã hội. Phải chăng ước nguyện của Đức cha Nguyễn Kim Điền hôm nay đã thành hiện thực. Và dường như những vị tử đạo vì công bằng xã hội đang nở rộ trên khắp các lục địa !

NGÀY HƯU LỄ VÌ CON NGƯỜI

NGÀY HƯU LỄ VÌ CON NGƯỜI

Năm Căn, 16-8-1971

Ông Chín Kiểu năm nay đã ngót nghoét bảy mươi. Ông mở quán nước ngay trước giáo điểm. Cứ sau mỗi giờ dạy học, mình lại đến đây nói chuyện dông dài với ông. Tuy là chuyện dông dài, nhưng lại xoáy vòng trôn ốc. Hôm nay đường trôn ốc đã kết thúc, mình đi thẳng vào vấn đề.


- Nghe nói ông Chín có đạo phải không ?

- Ừa, hồi nhỏ tôi theo đạo Chúa như cha. Nhưng, tôi bỏ xưng tội mấy chục năm nay rồi.

- Vậy thì, Chúa nhật tới này, tôi mời ông Chín đi lễ nghe.

Câu nói của mình như một tiếng sét làm rung chuyển trời đất. Ông Chín khóc hụ lên. Hai dòng lệ chảy xối xả. Hai môi giật giật, như người động kinh. Mình hoảng sợ ngồi chết trân. Năm phút sau, ông Chín lấy lại bình tĩnh và kể chuyện :

“Cha tôi đạo dòng, bỏ Hòa Thành xuống Cái Keo làm ăn. Con cái sinh ra đều lấy vợ chồng ngoại. Cha sở Hòa Thành phạt cha tôi không cho xưng tội rước lễ. Đến khi già yếu, biết mình không còn sống bao lâu nữa, ổng chèo xuồng 30 cây số từ đây lên tới Hòa Thành chầu chực suốt tuần thánh, năn nỉ xin xưng tội rước lễ mà không được. Ổng đành chèo xuồng trở về. Ổng buồn rồi ổng chết. Cha tôi chết không được chôn trong đất thánh”.

Nói đến đây ông lại khóc hụ lên một lần nữa. Ông mếu máo nói với giọng hằn học :

“Cha tôi có làm điều gì thất đức đâu, mà Hội thánh đang tâm đày đọa ổng đến độ, già rồi mà vẫn còn bị xua đuổi, chết rồi, mà vẫn còn ghét bỏ...”

Bầu khí ngộp thở. Mình cáo từ ra về, lòng buồn man mác.
-------------

Năm Căn, ngày 17-8-1971

Hôm nay mình đến thăm ông Chín Kiểu, hy vọng xoa dịu nỗi đau của ông. Nhưng trên cổ ông đã xuất hiện hình Đức Phật sáng chói. Thế là xong ! Lối vào đời, ông đã bị kéo dây chì gai rồi !

Ổng đeo ảnh Phật để quyết liệt từ chối trở về với Chúa. Ổng đeo ảnh Phật để cảnh cáo mình: “Từ nay, đừng khuyên tôi trở lại đạo nữa…”

Sau mấy chục năm bị nỗi đau cắn xé, hôm nay ông Chín đã xổ ra được. Giờ này có lẽ ông đang ngủ ngon. Trong giấc mơ, những ngón tay ông đang mân mê ảnh Đức Phật từ bi. Còn mình thì giờ này vẫn chưa ngủ được. Một nỗi đau rấm rứt vừa xuất hiện và có lẽ nó sẽ cắn xé lương tâm của mình suốt đời.

Mình lan man nghĩ đến chuyện xưa. Tại giáo điểm nọ, bà Năm khuyến khích chồng con theo đạo, còn bà thì cứ khất lần. Mình dồn bà vào chân tường, nên bà đành tiết lộ nỗi lòng thầm kín. Bà kể :

“Hồi tôi còn bé, trong xóm tôi người ta theo đạo nhiều lắm. Ông cha Tây dạy: Theo đạo thì phải dẹp bàn thờ ông bà. Sau ngày rửa tội linh đình, ổng đi thăm các gia đình đạo mới. Tới một gia đình nọ, vừa tới cửa là ông dậm chân bẹt bẹt, miệng la hét : Tại sao chưa dẹp cái bàn thờ kia ? Ổng nhất định không bước chân qua ngưỡng cửa cho tới khi cái bàn thờ ông bà bị khiêng bỏ ra ngoài sân…”.

Câu chuyện bà Năm kể còn dài lắm. Nhưng vừa nhớ đến chỗ cái bàn thờ bị khiêng bỏ ra ngoài, mình cảm thấy có cái gì đăng đắng ở miệng, nghèn nghẹn ở cổ. Bây giờ mình mới hiểu được nỗi lòng của ông Chín. Ông Chín là người con có hiếu. Vì thương cha, ông hận Giáo hội. Cha sở Hòa Thành tôn trọng luật lệ, nhưng không tôn trọng tình cảm của con người. Chỉ có ông Chín mới hiểu được rằng, cha ông không thể không cưới vợ ngoại cho con và gả con cho người ngoại, bởi lẽ cha ông sống cô thân giữa một vùng chỉ có người ngoại. Cũng chỉ có ông Chín mới thấy được cái tủi hận của một ông lão già gần đất xa trời, mà không được xưng tội rước lễ. Chỉ có ông Chín mới cảm thấy cái đau đớn, khi bị từ chối không được chôn cha mình trong đất thánh, nơi mà cha ông hằng mong ước.

Cha sở sau khi quyết liệt từ chối, không cho ông lão già xưng tội rước lễ, thì lòng vẫn an vui. Và sau khi quyết liệt từ chối không cho ông lão già chôn trong đất thánh, thì lương tâm vẫn bình thản. Đó là luật, luật của Hội thánh.

Mình cay đắng tự hỏi: “Luật vị luật, hay luật vị nhân sinh ? Con người vì ngày hưu lễ, hay ngày hưu lễ vì con người ? “

Đường lối mục vụ ấy có nên tồn tại nữa không ? Và các nhà truyền giáo có quyền áp đặt một thứ mục vụ như thế trên các tân tòng không ?

Cái Keo, ... 1973

Cái Keo, ... 1973

Hôm nay mình đi thăm bà con để tìm hiểu “nhân tình thế thái” . Vợ chồng anh M. đóng một cái đáy nho nhỏ sát mí bờ sông. Họ đến đây với hai bàn tay trắng. Họ vay tiền để sắm dụng cụ làm ăn.

- Anh chị vay bao nhiêu để đóng cái đáy này ? 

- Mười ngàn. Cái đáy nhỏ xíu à. Mỗi ngày kiếm được chừng một ngàn, đủ sống qua ngày.

- Người ta cho anh đóng tiền lời một tháng bao nhiêu ?

- Cứ mỗi ngày đưa cho người ta ba trăm đồng.

- Mỗi ngày ba trăm đồng. Ba mươi ngày thành ra chín ngàn đồng. Như vậy là anh chị chịu lời chín mươi phân một tháng. Chưa từng có trên thế giới !

Trên đường trở về nhà, mình băn khoăn suy nghĩ về vấn đề xã hội tại miền cuối Việt này. Tại sao chủ nợ lại đang tâm cho vay ăn lời chín mươi phân ? Và tại sao chủ nợ siết cổ như vậy, mà con nợ vẫn sống tỉnh queo ? 




Mình phân tích sự kiện theo phương pháp kinh viện : TẠI SAO ? BỞI ĐÂU ? ĐỂ LÀM GÌ ? ... và cuối cùng mình khám phá được bí ẩn này như sau :

1- Ở Năm Căn dễ sống lắm. Xách cái xuồng đi quăng chài chừng ba tiếng đồng hồ cũng kiếm được vài chục ký tôm. Chỉ cần một cái xuồng be bảy vô rừng bắt vọp, ốc len, ba khía… cũng dư sức nuôi năm miệng ăn. Với mười ngàn đồng tiền vốn mà mỗi ngày kiếm được trên dưới một ngàn đồng. Như vậy có nghĩa là: một vốn đẻ ra ba lời / 1 tháng. Nói cách khác, đó là doanh nghiệp có lãi suất ba trăm phần trăm / 1 tháng.

2- Cho vay lấy lời chín mươi phân chưa phải là bóc lột, vì để có được số lời đó chủ nợ phải đi đòi ba mươi lần mỗi tháng. Nhiều khi phải năn nỉ ỉ ôi. Lắm lúc phải chửi thô tục mới thấy tiền từ trong túi con nợ lòi ra. Mà tiền công chửi thì vô giá ! Ấy là chưa kể con nợ có thể trốn đi trước khi thanh toán số tiền vốn. Họ chỉ để lại một cơ ngơi gồm : cái chòi rách và cái chổi cùn... Công bằng xã hội ơi! Thế nào là bóc lột? Thế nào là công bằng?

----------------------------

Năm Căn, .... 1976

Hôm nay mình trở lại Năm Căn cùng với một lô những ông bạn tò mò. Trước hết chúng mình đến thăm ông Tư Đức. Giáo điểm Năm Căn đã đóng cửa được một năm rồi, mà trên vách ván nhà ông Tư vẫn còn những câu Phúc Âm in đậm nét phấn. Hạt giống Tin Mừng đã gieo xuống mảnh đất này từ năm năm qua, hôm nay vẫn còn đó, bất chấp nắng hạn. Nhưng rồi ngày mai, ngày mốt, và nếu thời gian cứ chồng chất, thì số phận của hạt giống sẽ ra sao ? Mình gởi gắm Năm Căn cho Chúa Thánh Thần.

Buổi chiều, tụi mình vô thăm rẫy. Dưa hấu và dưa hấu. Vô nhà nào cũng thấy một mâm dưa hấu.

- Ăn đi ông cha! Ăn hết mới được về.

- Chắc tôi chết quá!

- Còn một nồi cháo vịt nữa. Thấy bóng ông cha ở bên đó, thì bên này tôi bắt đầu mần vịt. Gặp ông cha, tôi mừng hết biết. Tưởng không bao giờ còn gặp lại ông nữa.

Chỉ trong vòng ba tiếng đồng hồ, tụi mình phải thanh toán hết ba nồi cháo vịt và hằng chục mâm dưa hấu. Người Năm Căn như thế đó. Ăn cho “chết” để có tình. Uống cho “chết" để làm anh em. Chất phác, cuồng nhiệt, và dễ thương.
--------------------------------------------------------------------------------

Cái Rắn,… 25-11-1995

Sáng nay mình đi làm lễ giỗ ở Rạch Ruộng. Chiều về đi làm lễ giáp tuần cho bà Năm Hơn. Lễ xong mình ở lại tâm tình với tang quyến. Chuyện buồn quá !

Bà Năm Hơn đi thăm con ở Năm Căn. Hai giờ khuya ngày 20-11-1995 bà giục con đưa bà ra vàm Ông Do để đón tàu về Cái Rắn.

- Còn sớm quá mẹ ạ!

- Vừa rồi đấy !

Mẹ con giằng co một hồi. Chiếc xuống be mười đưa bà Năm ra vàm, theo nhịp chèo uể oải của đứa con gái đang hờn dỗi. Đêm 27, ánh sao mờ nhạt khiến đêm đã tối lại càng tối hơn. Nước ròng chảy siết, đổ ra vàm cuồn cuộn như thác.

- Tới vàm rồi. Mẹ ngồi vững nghe. Nước đạp dữ lắm đó. Chỗ này có nhiều người chết chìm.... Chúa ơi ! Xuồng tấp vô hàng đáy rồi mẹ ơi !... Bớ bà con ơi !... Mẹ ơi !... Mẹ ơi !...

Bà Năm lặng lẽ chìm xuống dòng sông lạnh. Tiếng con bà gào lên thảm thiết xé toạc màn đêm yên tĩnh. Vài chục ánh đèn pin lóe lên một cách tuyệt vọng. Ba giờ ba mươi sáng ngày 20-11-1995.

- Bốn mươi tám giờ nữa xác mới nổi lên. Sông Cửa Lớn dữ dằn lắm, chẳng mò được đâu. Đành chờ thôi. Một người đàn ông đứng tuổi góp ý chắc nịch như thế.

Những bàn chân to bè và thô nhám lặng lẽ rời khỏi căn trại đáy. Vàm Ông Do chỉ còn lại đêm tối rùng rợn và tiếng khóc tuyệt vọng …

Sau câu chuyện buồn, người ta thi nhau ca tụng tấm lòng vàng của người Năm Căn :

- Bà con vàm Ông Do quyên được 590.000 đồng. Châm xăng cho người ta đi kiếm xác hai ngày hết 200.000 đồng. Còn dư 390.000 đồng đưa cho thân nhân đem về Cái Rắn.

Chủ hàng đáy nấu cơm nuôi những người đi kiếm xác. Đãi cơm luôn cả thân nhân ở trên này xuống. Việc của mình mà người ta lo hết trơn.

Dân chính ấp Hàng Vịnh và Chữ Thập đỏ thị trấn Năm Căn đứng ra lo giùm mình từ đầu đến cuối. Nào là bổ người đi kiếm xác. Nào là quyên tiền... Họ tốt thiệt tình !

Nếu một sự cố tương tự xảy ra ở Cái Rắn này, thì nhắm chừng họ đạo Cái Rắn có thể làm được như bà con ở Năm Căn không ? Mình hỏi thử mọi người như thế. Người ta chỉ cười trừ. Thảo nào ngày xưa Chúa đã phải thốt lên những lời cay đắng :

“Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Ít-ra-en”.

“Tại sao chỉ có một người này trở lại tôn vinh Thiên Chúa ? Mà người này lại là người ngoại ?”

Bị xúc động bởi những tấm lòng vàng ấy, mình bèn viết một lá thư ngỏ gửi về mảnh đất Năm Căn yêu dấu.

Năm Căn yêu dấu ơi !

Ta biết Năm Căn từ đầu năm 197..... Nhưng mãi tới ngày 24-5 năm ấy ta mới thực sự đặt chân lên đất Năm Căn. Ta yêu Năm Căn từ thuở ấy. Nhưng Năm Căn lúc ấy còn xơ xác lắm. Một nhạc sĩ nào đó đã sáng tác tại chỗ một bài ca lấy tựa đề "Năm Căn, nơi lưu đày”. Anh chàng nghệ sĩ ôm cây đàn ghi-ta, đu đưa cái đầu trọc lóc, than khóc cho thân phận éo le của mình. Anh than khóc vào đúng một đêm Noel. Đêm Noel năm ấy không bừng sáng dưới ánh đèn muôn sắc, mà chập chờn dưới ánh hỏa châu giăng mắc.

Cũng đúng thôi, vì Năm Căn lúc ấy là Năm Căn của thời chiến. Chiến tranh siết lấy Năm Căn như một sợi dây thòng lọng. Rừng Năm Căn bị cày lên bởi pháo 41 và 105. Đước Năm Căn bị phang xơ xác bởi đại liên 50 và 60. Người Năm Căn nghèo te tua như cánh rừng bị bỏ thuốc khai quang. Nhưng ta vẫn yêu Năm Căn và muốn mãi mãi là người Năm Căn ...

Thế rồi ngày 14-6-1975, ta phải miễn cưỡng giã từ Năm Căn với bao nhiêu là thương tiếc. Thân xác ra đi, nhưng lòng ta vẫn ở đó. Ta đã thấy rừng đước Năm Căn biến thành rẫy bí, rẫy khoai… bạt ngàn. Rồi ta lại thấy rẫy rừng biến thành vuông tôm mênh mông. Ta đã thấy Năm Căn giàu lên như diều gặp gió với những tiệm vàng và tiệm đồng hồ san sát bên nhau, với những cô gái vàng đeo đỏ người. Ta cũng đã thấy những tháng ngày chợ Năm Căn ế ẩm như nồi cháo thiu, vì tôm chết và chết không ngừng. Hôm nay, sau cái chết của bà Năm Hơn, lòng ta lại rộn lên lòng thương mến Năm Căn. Ta muốn đến tận vàm Ông Do để nói lên lòng biết ơn và cảm mến đối với nhân dân, chính quyền và Chi Hội Chữ Thập đỏ Năm Căn. Ta muốn siết tay người chủ hàng đáy có tấm lòng nhân ái còn lớn hơn cả dòng sông Cửa Lớn.

Năm Căn ơi ! Hẹn ngày tái ngộ nhé !

Friday, December 4, 2015

PHỤ NỮ


PHỤ NỮ

Cà Mau, ...

Hôm nay mình đọc xong cuốn "Mùa gió chướng" của Nguyễn Quang Sáng. Mình thích Nguyễn Quang Sáng, vì ông luôn luôn tìm được lý do để vui cười, ngay cả khi đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết: cô du kích không sợ súng Mỹ, nhưng lại hết hồn khi thấy con đỉa; cô cán bộ giao liên nhảy xuống đìa để tránh trực thăng Mỹ, nhưng lại không chịu hụp xuống nước, hoặc chui vào bờ bụi, vì cô tiếc cái mớ tóc mới chải dầu dừa… Nhưng mình nhớ để đời câu nói sau dây của Nguyễn Quang Sáng: ”Đàn bà như sao trên trời…”

Sao trên trời thì vừa dày, vừa sáng. Nhưng nó chỉ thật dày và thật sáng, vào những đêm thật tối trời. Người đàn bà cũng vậy: họ chỉ ra tay anh hùng, khi gia đình và đất nước lâm nguy. Thôi thì thượng vàng hạ cám, cái gì họ cũng làm được. Họ có thể buôn vàng, buôn đô la, rồi lại bán thịt, bán cá, ngồi quạt chuối nướng, ngồi bán ốc, bán bún... Trong khi đó các đấng mày râu chỉ biết thượng vàng, mà không thể hạ cám.

Ừ, mà thế thật. Vào thời Tự Đức, khi các linh mục chui lủi trong vách kép, thì các chị Mến Thánh Giá vẫn đem thư của giám mục đến các họ đạo. Và hôm nay, tại họ đạo của mình: mình đào mương, bà phước cũng đào mương; mình đi gặt, bà phước cũng đi gặt. Nhưng khi bà phước ngồi bán bún riêu và quạt bánh đa, thì mình giơ tay đầu hàng... Vậy mình phải nghĩ thế nào về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội hôm nay ?
------------

Cà Mau, ... 1994

Hôm nay một ông bạn không cùng tín ngưỡng đã đến thăm mình. Không cùng tín ngưỡng, nhưng lại rất thân, đến mức độ có thể xưng hô bằng "cậu, tớ". Anh thắc mắc đủ điều: nào là “Tại sao linh mục không có vợ”. “Tại sao phụ nữ không làm linh mục?” … Anh kết luận :

- Như vậy là trong Giáo hội sẽ không có bình đẳng nam nữ, bao lâu phụ nữ chưa được làm linh mục.

- Theo tôi nghĩ thì vấn đề là: người phụ nữ có nên làm linh mục hay không, chứ không phải là người phụ nữ có được làm linh mục hay không ? Chính vì thế mà người phụ nữ Việt Nam không hề than phiền, khi Nhà nước không đòi hỏi họ phải thi hành nghĩa vụ quân sự như nam giới. Nên quan niệm chức linh mục là một nhiệm vụ, hơn là một vinh dự. Mỗi người, mỗi phái, chỉ nên lãnh những trách nhiệm hợp với khuynh hướng và khả năng của mình.

- Anh nói có lý, nhưng tôi vẫn chưa hài lòng.

- Chính tôi cũng đã hài lòng đâu, bởi vấn đề phụ nữ, là vấn đề của thời đại, đâu có giản dị như thế.

- Như vậy là đánh trống bỏ dùi hả ?

- Không phải tôi bỏ dùi, mà dùi gãy rồi !

Thế là xong. Câu chuyện chuyển hướng sang đề tài đời thường.

----------------

Sơn Tây, ... 1993

Vũ Tất kể cho mình nghe:

- “Các bà Hơmông truyền giáo hăng say lắm. Cứ hết mùa gặt, các bà lại đeo gùi lên vai, rồi đi bộ từ Yên Bái, qua Sơn La, từ Sơn La qua Lai Châu. Các bà coi cánh đàn ông chẳng ra gì cả. Các bà ấy bảo chồng thế này: Các ông ở nhà, để chúng tôi đi truyền giáo cho. Đàn bà chúng tôi thì ăn ít, nói nhiều. Còn đàn ông, thì nào ăn, nào uống, nào hút. Ăn, uống, hút cũng hết giờ rồi, còn truyền giáo cái gì nữa…”

- Mình thấy các bà Hơmông nói hay thật. Họ tự thú là đàn bà nói nhiều, nhưng lại biết hướng tật nói nhiều ấy sang sứ vụ truyền giáo.

- Họ tố cáo đàn ông cũng đúng luôn. Đàn ông Hơmông có cái tật hút thuốc phiện. Có người sạt nghiệp vì hút thuốc phiện đấy.
---------------

Hiền Quan, ...1989

Sáng nay mình đang ăn lót lòng với ông trùm ở trong phòng, thì bà quản từ ngoài cổng đi vào, cắt ngang sân để xuống nhà bếp. Ông trùm nói vọng ra :

- Sướng nhá ! Hôm nay không ăn cũng no nhá !

- Sách "Tháng Đức Bà" cũng chả cho người ta đọc !

Hai câu đối đáp vu vơ làm mình ngẩn ra một lát. À ! thì ra bài giảng tối hôm qua đã gây tiếng vang dữ dội trong họ đạo. Mình nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ. Mình than phiền vì thấy tại quê hương mình, người phụ nữ chẳng hề được đối xử công bằng như Đức Giêsu đã làm:

+ Trong Hội đồng giáo xứ không hề có người phụ nữ nào. Vai trò quan trọng nhất của họ chỉ là làm "bà quản dâng hoa".

+ Họ không được dọn dẹp trong khu cung thánh.

+ Nếu đọc sách thánh, thì họ không được đứng trên giảng đài.

+ Ngay trong nhà bếp, họ cũng chỉ nấu cơm, nấu nước và rửa bát dĩa. Mổ gà, chiên cá, làm gỏi, đánh tiết canh... đều do cánh đàn ông đảm trách.

Mình nghiệm ra rằng, có một sai lầm rất lớn trong “hội nhập văn hóa”. Xã hội Việt Nam ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng-Mạnh. Ở đó “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Ở đó, “Người phụ nữ phải ở trong nhà thì xã hội mới yên”. Lẽ ra người truyền giáo phải lấy tinh thần kính trọng phụ nữ của Chúa Giêsu, để nâng người phụ nữ trong xã hội Việt Nam lên, thì ngược lại, họ lấy tinh thần trọng nam khinh nữ của văn hóa Khổng-Mạnh, để trùm lên trên Phúc Âm và cơ chế họ đạo.
------------------

Sơn Tây, ... 1993

Trong buổi họp, anh em linh mục Hưng Hóa bàn về việc tổ chức kỷ niệm 100 năm thành lập giáo phận (1895-1995). Một trong các sinh hoạt dự tính là mở đại hội Ban Hành Giáo toàn giáo phận. Giáo phận có hơn 400 họ đạo. Mỗi họ đạo cử hai đại diện về dự đại hội. Như vậy là có chừng từ 800 đến 1.000 thành viên Hội đồng giáo xứ tham dự. Và toàn là đàn ông. Mình nghĩ ngay đến một tấm hình chụp thật vĩ đại: một ngàn thành viên Hội đồng giáo xứ ! Thật là trùng trùng điệp điệp ! Đó là sức mạnh của giáo phận. Tuyệt vời ! Nhưng bỗng mình thấy có cái gì không ổn.

- Ủa ! Một ngàn thành viên Hội đồng giáo xứ, mà không có một người phụ nữ nào sao ? Có bình thường không nhỉ ?

Bỗng mọi người ngẩn ra và cùng cười hì một cái.

Thursday, December 3, 2015

Cần Thơ, ... 1965


Cần Thơ, ... 1965

Legio Mariae mời mình đi kẻ liệt. Kẻ liệt là một bà già trên tám mươi tuổi. Bà xin được rửa tội. Mình hỏi bà về một số điểm giáo lý gọi là “những điều cần kíp”.



Rửa tội xong, bà ngước mắt nhìn mình một cách thành khẩn.

- Cha ơi, tôi theo đạo Phật từ nhỏ. Tôi thương Đức Phật quá. Bây giờ tôi theo Chúa, cha cho tôi giữ bàn thờ Đức Phật nha !

Mới 29 tuổi đời và một tuổi mục tử, mình thấy bối rối trước một yêu cầu như thế. Bỗng mình nhớ đến thầy Luca Huy. Thầy Luca Huy dạy mình rằng : "Phải tôn trọng đạo Phật, phải kính trọng Đức Phật” . Chính thầy Huy cũng có một tượng Phật để trên bàn viết. Bà cụ năn nỉ :

- Đức Phật tốt lắm cha ạ. Tôi thương Ngài lắm.

- Tôi đề nghị với bà thế nầy: Chúa thì để trong lồng kiếng, còn Đức Phật là hiền nhân thì để ở kế bên Chúa. Bà chịu không ?

- Tôi chịu vậy đó.

- Bà cứ thương Đức Phật đi. Tôi cũng thương Ngài nữa.

------------

Cần Thơ, ...1965

Hôm nay mình lên Tòa Giám mục.

- Thưa Đức cha, hôm qua con rửa tội cho một bà cụ đạo Phật. Bà xin giữ bàn thờ Phật. Con biểu bà để tượng Chúa trong lồng kiếng ở chỗ quan trọng nhất trong nhà, còn tượng Phật thì để ở kế bên. Bà tin Chúa là Đấng cao cả, nhưng bà thương Đức Phật quá.

- Được lắm ! Cha có sáng kiến hay.

Mình ra về, tâm hồn nhẹ phơi phới.

----------

Núi Sam, ... 1969


Mình cùng với lớp đệ tứ lên cắm trại ở Núi Sam. Núi Sam vừa hùng vĩ vừa huyền bí. Thầy trò leo trèo thỏa thích. Chụp hình lia lịa, và viếng Chùa. Ni sư thì hiền như cây cỏ, học trò mình thì nghịch như ma. Chùa chiền đang yên tĩnh bỗng rộn lên như hội chợ. Các ni sư không giận hờn, không xua đuổi. Dường như các ngài thương mến học trò của mình hơn cả chính mình. Các ngài mỉm cười độ lượng trước những trò chơi quỷ quái của chúng. Chùa chiền là thế: thiên nhiên yên tĩnh; tâm hồn yên tĩnh. Đăng sơn chán thì hạ sơn. Hạ sơn để dâng thánh lễ. Dâng thánh lễ ở đâu ? Mình vô chính điện.

- Thưa Đại đức, trong chùa có chỗ nào thuận tiện, Đại đức cho tôi mượn chừng nửa giờ để tôi dâng thánh lễ được không ?

- Ở đây thì không tiện. Ở ngoài cổng có một phòng khách rộng lắm, linh mục có thể ở đó và dâng lễ tự nhiên. Chùa cho mượn bàn để làm bàn thờ. Đèn của chùa, hoa của chùa, chuông của chùa, chỉ có mình là của Chúa.

Lần đầu tiên trong đời, mình dâng thánh lễ trong khuôn viên nhà chùa. Chúa ngự ở đây và chắc chắn Chúa yêu thương nơi này. Từ phòng khách mình giang tay cầu nguyện, mắt nhìn lên cao, như¬ng vẫn lo ra nhìn về chính điện. Ở đó tượng Phật to lớn ngồi thiền giữa rừng hương nhang, yên tĩnh, thân thương.

-------------

Cần Thơ, ...

Mình đang bước vội trên lề đường Nguyễn Trãi. Một chiếc Jeep ôm sát lề, thắng két một cái.

- Linh mục đi đâu đây ?

- Tôi về Cầu Xéo.

- Lên đây, tôi đưa về đó cho.

Đại đức Thích T.N., một ông sư trẻ trung và ồn ào. Như tụi mình, cũng cắm trại, cũng nhảy cò cò, cũng thụt dầu... Ông mời mình một điếu Salem. Cay cay, the the. Mình hỏi cùng với khói Salem.

- Đại đức ơi, hỏi chơi nhé, bên chùa còn cấm sát sanh không ?

- Còn chớ, giáo lý căn bản đấy.

- Đùa thêm tí nữa nhé. Nếu Đại đức làm Bộ Trưởng Bộ Y tế thì Đại đức có ra lệnh cấm sát trùng không ? Nếu Đại đức làm Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp thì có cấm xịt thuốc rầy nâu không ? Tất cả đều là sát sanh đấy.

- Hì… hì… cái đó mới kẹt đấy.

Tương quan giữa mình và Thích T.N. là thế: chân tình cởi mở và đôi khi cũng tếu ra trò. Ông mặc áo nâu, mình mặc áo đen. Nhưng cả hai phục vụ giới trẻ trong môi trường học đường. Mình thích đi bộ, còn ông thì thích lái xe Jeep. Hễ cứ gặp nhau thì mình lại lên ngồi xe Jeep với ông, lại phì phà Salem với ông. Khác linh đạo, nhưng cùng là người.

-----------------

Đầm Dơi, … 1974

Lần đầu tiên mình đi Đầm Dơi để từ đó tìm đường đi Bàu Sen. Trời đã xế mà Đầm Dơi thì chưa thấy đâu. Đường mòn cỏ mọc lấp cả lối đi. Mình bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Không biết đêm nay mình sẽ ngủ ở phương nao ?

Phía bên phải ẩn hiện một ngôi chùa, chùa Phật giáo Tịnh Độ. Thấy ngôi chùa thấp thoáng sau vườn cây, lòng mình ấm hẳn lại. Mình vẫn đi, đi về Đầm Dơi nhưng vẫn tự nhủ: nếu không tìm thấy Đầm Dơi, mình sẽ trở lại ngôi chùa này xin cơm ăn và xin chỗ ngủ. Chùa nào cũng thế: chan chứa tình người.
Có một người nào đó nói nhỏ bên tai mình: “Đêm hôm lỡ đường, vô nhà thờ thì chưa biết thế nào, chứ vô chùa thì chắc chắn có cơm chay và cả một bộ ván để ngủ”. Câu nói làm mình nghẹt thở, nhưng dường như cũng có thế thật. Còn tại sao, thì phải lý giải lâu dài.

----------

Cà Mau, 20-7-1975

Sau buổi thuyết trình của ông Chủ tịch Mặt trận Tỉnh, mình ra hành lang đứng hóng mát. Ở đó đã có một bóng áo nâu: Đại đức Thích T.M. Lưng dài vai rộng, Đại đức T.M. giống như bố mình ngày xưa. Bởi thế dù mới sơ ngộ, mà mình đã cảm thấy gần gũi và thân thương. Mình đứng sát bên Đại đức, trao đổi và tâm tình.

… Từ buổi nói chuyện ấy mình khẳng định rằng Lời Chúa không bao giờ bị xiềng xích. Mình ghi ơn Đại đức Thích T.M. như một bậc thầy.

------------

Cái Rắn, 14-1-1995

Sáng nay mình ghé thăm bà Hai Chiếu. Bà đã 88 tuổi rồi mà trí khôn vẫn còn minh mẫn, vẫn còn nói chuyện khôi hài. Mình hỏi bà đủ chuyện, kể cả chuyện thời con gái của bà. Bà kể: - “Hồi ông tôi cưới tôi, ba ghe đi đón dâu lận. Má tôi cho tôi một con gà mái. Nó đẻ 12 trứng, nở 11 con. Thấy mà ham”.

- Ủa tại sao 12 trứng mà nở có 11, bà Hai ?

- Cái trứng đó không có trống mà.

- Vậy thì vứt bỏ phải không ?

- Chừng nào ? Luộc ăn chớ.

Thấy bà Hai vui tính quá, mình tấn công thêm :

- Ban đêm bà Hai ngủ được nhiều không ?

- Ngủ ít thôi.

- Không ngủ được thì bà Hai làm gì ?

- Niệm kinh cho con cháu, cho bá tánh. Niệm một trăm, niệm hai trăm, niệm ba trăm.

- Thế bà Hai có niệm cho cha sở Cái Rắn không ?

- Niệm chung cho bá tánh là được rồi.

- Không được đâu, bà Hai phải niệm riêng cho tôi một chục hoặc năm chục gì cũng được.

- Mô Phật một, mô Phật hai... mô Phật năm mươi.

- Cám ơn bà Hai nhá.

- Thêm cho cháu năm chục nữa. Mô Phật một, mô Phật hai... mô Phật năm mươi.

Bà Hai còn muốn niệm thêm nữa cho mình. Mình vội cắt ngang.

- Bà Hai sợ chết không ?

- Không !

- Chết rồi bà Hai đi đâu ?

- Biết đâu à.

- Bà Hai về với Chúa. Bà Hai nhớ cầu nguyện cho tôi với.

- Mô Phật một, mô Phật hai...

Tuesday, December 1, 2015

Năm Căn, ... 1973 II

Năm Căn, ... 1973 
Mình chui vào căn lều của bà Hai. Gia đình bốn khẩu. Ông Hai chỉ còn làm được một việc duy nhất là chuốt đũa. Đứa con trai lớn thì mắc bệnh tâm thần, may mà hắn không đập phá. Cái đầu của hắn thì không làm việc, nhưng do luật bù trừ, cái bao tử của hắn thì lại làm việc tối ngày. Nguồn sống của gia đình là đôi tay gầy của bà Hai cùng với thằng con trai chừng 15 tuổi. Phương tiện làm ăn là một cái búa, một cái cưa và một cái xuồng be chín. Nghề duy nhất là vô rừng đốn củi trộm.

Mình nhìn quanh quất, chả thấy có món đồ nào có giá trị hơn hai cái thùng đạn 81 ly. Chắc hẳn mùng mền, quần áo và chén đĩa đều nằm gọn trong đó. Và chỉ có thế thôi. Mình làm một cuộc phỏng vấn nhỏ.

- Mỗi ngày bà Hai kiếm được mấy thước củi ?

- Một thước

Đơn vị đo củi theo dân địa phương :

- 1 thước củi miếng = ¼ m3

- 1 thước củi lò = ½ m3

- 1 xì te = 1m3

- Tại sao không ráng làm lấy ba, bốn thước ?

- Cái xuồng be chín nhỏ tí xíu mà sông nước thì như thế kia !

Đơn vị đo trọng tải theo dân địa phương :

- Xuồng be 7 có trọng tải chừng 100 Kg

- Xuồng be 9 có trọng tải chừng 300 Kg

- Xuồng be 10 có trọng tải chừng 400 Kg

- Xuồng be 10 kèm có trọng tải trên 400 Kg



- Bà bán cái xuồng be chín đi. Tôi mượn cho bà năm ngàn đồng. Thế là bà có được một cái xuồng be mười kèm. Mỗi ngày bà sẽ có bốn thước củi, nghĩa là bà sẽ giàu gấp bốn lần. Mỗi ngày bà để dành lấy hai trăm đồng. Sau hai mươi lăm ngày bà sẽ trả xong món nợ năm ngàn. Từ đó cái xuồng be mười là của bà. Cứ mỗi ngày làm được bốn thước củi, ăn một thước, để dành ba thước. Năm thứ nhất bà sẽ xây nhà tường. Năm thứ hai bà sẽ xây hồ nước, đóng giếng. Năm thứ ba bà sẽ có giường hộp, tivi. Tôi tính vậy được không bà Hai ?

- Được. Ông Cha giúp tôi, tôi cám ơn. Mắt bà Hai sáng lên, miệng bà Hai toét ra, khoe hai hàm răng đen thủi đen thui.

-----------

Năm Căn, ... 1973

Hôm nay mình lại chui vào căn lều của bà Hai. Ông Hai ngồi chuốt đũa ở cửa. Hai mẹ con bà Hai đang cưa củi ở bên bờ sông. Thấy mình, bà chạy vào nhà, đon đả:

- Ông cố mạnh giỏi hả ông cố ?

- Bà Hai lúc này giàu chưa ? Có để dành mỗi ngày 200 đồng để trả nợ không ?

- Sao cứ thiếu hoài, ông cố ơi !

Thế là kế hoạch giúp dân làm giàu của mình bị vỡ rồi. Theo cuộc điều tra chớp nhoáng, mình được biết như sau:

+ Từ ngày có cái xuồng be mười kèm, hai mẹ con bà Hai quả thật có làm thêm mỗi chuyến được ba thước củi, nghĩa là bà giàu thêm gấp bốn lần. Nói một cách kinh tế học, thì nền kinh tế gia đình bà Hai tăng 400%. Tuyệt vời !
+ Nhưng cũng từ ngày đó, ông Hai và hai thằng con trai không thèm hút thuốc gò nữa. Trong mỗi túi áo đều thấp thoáng một gói Ruby Queen màu đỏ tươi rói.

+ Cũng từ ngày ấy, những em bé bán bánh cam và bán cà rem đều bị bà Hai bắt giam một cách thật dễ thương: “Ngồi đây mầy, tao cấm mầy không đi đâu hết. Chừng nào tao ăn chán, mầy mới được đi”.

+ Và một ngày kia, anh thợ rừng xách tòn ten một con kỳ đà đi qua trước căn lều của bà Hai, bỗng giật mình vì một tiếng hét bất ngờ :

- “Vô mầy” .

- Mấy ký ?

- Ba ký.

- Tao mua luôn. Ở lại nhậu với tao nghe mầy. Hôm nay uống la de cho bảnh. Tao không ưa uống đế, hôi miệng lắm.

+ Làm được một xuồng củi bán lấy tiền, ăn xài cho hết rồi má con bà Hai mới lại vô rừng. Ấy là chưa kể nếu động rừng, hoặc gặp “kỳ đà cản mũi” thì bà Hai nghỉ tiếp luôn một tuần. Những ngày "tiên khồng" (nói lái là “không tiền”) ấy, bà sẵn sàng ăn vay với lãi suất không tính toán: Hai mươi phân, năm mươi phân, thậm chí chín mươi phân... bà cũng chẳng quan tâm. Cái xuồng be mười kèm là một bảo đảm có uy tín nhất. Vẫn bánh cam và cà rem ì xèo. Vẫn Ruby Queen rực rỡ.

----------

Cà Mau, ... 1979

Có tiếng chuông reo. Mình mở cửa. Một bà già đen đúa và rách rưới mừng rỡ, nắm lấy tay mình hôn chùn chụt.

- Ông cố mạnh giỏi hả ông cố ? Gặp ông cố con mừng hết biết. Hồi ở Năm Căn con nợ ông cố năm ngàn đồng. Không biết đến bao giờ con mới trả được.

- À ! Bà Hai đó hả ? Thôi bà ơi, tôi cho bà luôn đấy. Tôi muốn giúp bà làm giàu, mà bà không chịu. Không ai bóc lột bà, mà bà tự bóc lột.

Mình nói với giọng chua cay, không phải vì mình mắc trả giùm cái món "nợ" năm ngàn đồng, mà vì ước mơ giúp người nghèo làm giàu, thì lại bị chính người nghèo phản bội. Bà Hai đứng trước mặt mình nghèo hơn lần mình gặp bà ở Năm Căn. Bà đến đây để xin quần áo, xin gạo và xin tiền.

- Ông cố có quần áo cũ cho con xin một bộ, cho thằng khùng nó mặc.

- Ông cố có tiền cho con vài ngàn mua thuốc cho thằng khùng.

- Ông cố cho con ít lon gạo để con nấu cháo cho thằng khùng ăn.

Ông Hai chết rồi. Thằng con đi làm củi ngày xưa đã có vợ và ra riêng. Bà Hai đi hành khất để nuôi miệng và nuôi thằng con khùng. Thằng khùng bây giờ chỉ còn nằm một chỗ chờ chết. Bà Hai đã xuống tới vực thẳm của sự nghèo khó. Bà Hai đã và đang là gánh nặng đè trên vai mình. Trước hết mình đã phải trả cái món nợ năm ngàn đồng mà mình đã vay giùm bà. Bây giờ thì bà Hai đã biết mình ở đây, bà sẽ đến viếng thăm dài dài, mà mình thì không thể từ chối bà được. Bà không còn cách nào khác để sống. Người nghèo cũng là gánh nặng ghê gớm cho Giáo hội. Nhưng Tin Mừng bố thí hay Tin Mừng giải phóng người nghèo ? Câu hỏi này làm mình nhức óc. Giáo hội đã từng bố thí rất nhiều cho người nghèo. Nhiều họ đạo đã được thành lập vì Giáo hội đã cấp đất cho người nghèo. Người nghèo theo đạo để có ruộng. Nhưng ngày nay, những họ đạo ấy đang sinh hoạt ra sao ? Bạn của mình cho biết: Cứ đi dài dài theo bờ con kênh, chỗ nào thấy toàn nhà lá, thì đó là xóm đạo.

Vậy trên đường truyền giáo mình có nên bố thí không ? Bố thí thế nào ? Bố thí cái gì ? Một điều chắc chắn là người nghèo phải được giải phóng khỏi cái nghèo, cái dốt. cái lười… Nhưng bằng cách nào ? Câu hỏi quả là quá khó đối với mình. Nhưng có lẽ cũng là quá khó đối với mọi người.